(KTSG Online) – Trong bối cảnh Đảng và Chính phủ hướng tới mục tiêu tăng trưởng kinh tế bình quân hơn 10%/năm trong giai đoạn 2026-2030, câu hỏi “tìm đâu nguồn vốn dài hạn cho đầu tư – phát triển, với chi phí hợp lý” đang được nhiều doanh nghiệp…
(KTSG Online) – Trong bối cảnh Đảng và Chính phủ hướng tới mục tiêu tăng trưởng kinh tế bình quân hơn 10%/năm trong giai đoạn 2026-2030, câu hỏi “tìm đâu nguồn vốn dài hạn cho đầu tư – phát triển, với chi phí hợp lý” đang được nhiều doanh nghiệp và chuyên gia đặt ra.
Sức ép từ mục tiêu tăng trưởng hai chữ số
Đảng, Chính phủ và Quốc hội đặt mục tiêu tăng trưởng GDP tối thiểu 10% từ năm 2026. Với trường hợp mục tiêu tăng trưởng thực là 10%, cộng thêm mức lạm phát là 3%, thì mức tăng trưởng GDP danh nghĩa cần đạt 13%.
Để đạt được mức này, tăng trưởng tín dụng phải cao hơn tăng trưởng GDP danh nghĩa khoảng 2-3%, tương ứng với mức tăng trưởng bình quân 15%/năm giai đoạn 2026-20230 nay đến 2030. Như vậy, tín dụng phải tăng gấp hai lần mức hiện tại trong 5 năm tới, theo TS Nguyễn Tú Anh, Giám đốc nghiên cứu chính sách, Trường đại học VinUni.
“15 năm tới, việc huy động vốn cho các mục tiêu tăng trưởng của Việt Nam vẫn dựa vào hệ thống ngân hàng (bank-based system). Bởi ngân hàng là nơi chuyên môn hóa trong việc thu thập, xử lý thông tin và quản lý rủi ro, đặc biệt hiệu quả hơn với sự hỗ trợ của công nghệ số. Còn trên thị trường vốn, các cá nhân phải tự ‘deal rủi ro’, một việc quá sức với thị trường đang phát triển, hệ thống quản trị và pháp luật chưa đủ chặt chẽ, như Việt Nam”, ông Tú lý giải.

Bổ sung, ông Nguyễn Bá Hùng, Kinh tế trưởng, Ngân hàng phát triển châu Á (ADB), đánh giá điểm yếu lớn của thị trường vốn Việt Nam là khả năng cân đối kỳ hạn, tức khả năng kết hợp giữa các chủ thể trong nền kinh tế, với nhu cầu về kỳ hạn sử dụng vốn/đầu tư/tiết kiệm khác nhau, một cách “ăn khớp”.
Điều này dẫn tới tình trạng nguồn vốn kỳ hạn ngắn chưa được luân chuyển tới kênh có nhu cầu huy động vốn thực chất. Còn nguồn vốn kỳ hạn dài thiếu các cơ chế hấp thụ ổn định.
“Hệ quả là nền kinh tế phụ thuộc rất lớn vào nguồn vốn từ hệ thống ngân hàng – kênh duy nhất hiện nay có khả năng linh hoạt trong việc cân đối ngắn – trung – dài hạn, dù quy mô trung và dài hạn cũng hạn chế. Điều này khiến thị trường vốn chưa thể phát huy vai trò cung cấp tín dụng cho nền kinh tế, để chia sẻ trách nhiệm với ngân hàng”, ông Hùng nói.
Không chỉ giới chuyên gia, đại diện một doanh nghiệp lớn cũng chia sẻ khó khăn, khi huy động vốn cho các mục tiêu đầu tư – phát triển dài hạn. Bà Nguyễn Thị Hài Hòa, Phó tổng giám đốc Sun Group, cho biết đơn vị mình hiện vận hành theo mô hình “đầu tư lớn, nhưng thu tiền lẻ”, tức hoạt động trong những lĩnh vực đòi hỏi nguồn vốn đầu tư lớn trong dài hạn, gồm: du lịch, bất động sản, y tế, giáo dục, hàng không… rồi ghi nhận doanh thu qua hoạt động bán lẻ vé máy bay và vé tham quan, cáp treo tại các dự án du lịch như Bà Nà Hills, Fansipan…
Nhưng thị trường tín dụng hiện vận hành “lệch pha” với nhu cầu vốn của doanh nghiệp. Bởi khoản vay có thời hạn 7 năm được các tổ chức tín dụng (TCTD) phân loại vào nhóm dài hạn, còn khoản vay có kỳ hạn trên 7 năm được phân loại vào nhóm rủi ro.
Thậm chí, xu hướng “lệch pha” phần nào diễn biến nghiêm trọng hơn, khi thị trường tài chính xuất hiện biến động về thanh khoản những tháng cuối năm 2025.
“Việc đưa lượng lớn vốn tín dụng ra thị trường, với tốc độ nhanh, khiến khả năng huy động vốn của các ngân hàng không thể bắt kịp” bà Hoà nói tại hội thảo “Đa dạng vốn cho phát triển bền vững” ngày 15-12.
Để giải quyết khó khăn, không ít doanh nghiệp tư nhân lớn đã chọn giải pháp huy động vốn qua kênh TPDN cho giai đoạn 2026-2030, nhưng mọi việc diễn biến không thuận lợi, do một số nguyên nhân.
Chẳng hạn, nhu cầu thị trường chủ yếu tập trung ở các sản phẩm trái phiếu có kỳ hạn 1-3 năm hoặc 3-5 năm. Hơn nữa, tính thanh khoản sản phẩm trên thứ cấp còn thấp, khiến doanh nghiệp “ngại” phát hành TPDN với kỳ hạn dài. “Trái phiếu phát hành có kỳ hạn 10 năm. Nhưng nếu nhà đầu tư muốn bán ra tại năm thứ 5, vậy cơ chế nào có thể đảm bảo tính thanh khoản của trái phiếu từ năm thứ 5, thay vì phải đợi đến năm thứ 10″. Bà Hoà đặt câu hỏi.
Tình huống “ngổn ngang” của kênh huy động vốn mới
Không chỉ gặp khó khi huy động vốn từ kênh tín dụng ngân hàng và TPDN, triển vọng huy động vốn qua các sản phẩm tài chính của doanh nghiệp cũng đối mặt với nhiều thách thức.
Với các định chế tài chính như VinaCapital, dù từng thành công với thương vụ đầu tư 47 triệu đô la Mỹ, vào khu liên hợp sản xuất thép tích hợp tại Hải Dương, thuộc sở hữu của Tập đoàn Hoà Phát, qua hình thức vốn cổ phần. Nhưng đại diện đơn vị cũng không ít lần chia sẻ những khó khăn trong quá trình hoạt động tại thị trường Việt Nam.
Về nguồn cung vốn, bà Nguyễn Hoài Thu, Phó tổng giám đốc, Công ty quản lý quỹ VinaCapital, cho biết ngành quỹ đầu tư – một trong những trụ cột huy động vốn cho thị trường – hiện chỉ quản lý tổng tài sản, với giá trị tương ứng khoảng 6% GDP, thấp hơn nhiều so với mức bình quân khu vực. Còn số lượng nhà đầu tư tham gia sản phẩm chứng chỉ quỹ dưới mức 0,5% dân số, trong khi tại nhiều quốc gia châu Á, con số này dao động trong khoảng 20-50%.
Hai yếu tố này, theo bà Thu, phản ánh cơ cấu nhà đầu tư trên thị trường tài chính Việt Nam hiện ở giai đoạn phát triển sơ khai, đặc biệt khi xét đến sự tham gia của nhà đầu tư tổ chức và tính chuyên nghiệp.
Thậm chí, thách thức không chỉ tới từ việc thiếu vốn, mà còn thiếu vắng các doanh nghiệp tiềm năng. Theo đó, việc tìm kiếm các doanh nghiệp tư nhân đáp ứng đủ các điều kiện, như: có tiềm năng tăng trưởng bền vững, được dẫn dắt bởi đội ngũ lãnh đạo và người sáng lập có tầm nhìn dài hạn, đáng tin cậy… là rào cản lớn nhất, khiến các quỹ đầu tư dè dặt trong việc rót vốn.

Với tài sản số và mã hoá, ông Phan Đức Trung, Chủ tịch, Hiệp hội blockchain và tài sản số Việt Nam (VBA), thừa nhận các cơ quan quản lý phải giải quyết nhiều điểm nghẽn về hạ tầng công nghệ và vận hành, trước khi tính tới thu hút dòng vốn đầu tư, qua việc mã hoá tài sản thực và phát hành token.
Thực tế, các sàn giao dịch tại Việt Nam chưa sở hữu đủ lực lượng nhân sự và công nghệ, nhằm đảm bảo an toàn cho các nghiệp vụ lưu ký phức tạp, gồm lưu ký “off-chain” (ngoài chuỗi) và “on-chain” (trên chuỗi)
Trước đó, sự việc hack dữ liệu, tài sản sản lưu ký tại các sàn giao dịch quốc tế, như Hàn Quốc, không chỉ do lỗi phần mềm, mà gồm cả lỗ hổng trong mô hình toán học – cho phép tin tặc giải mã hành vi, dù không nắm giữ khóa bảo mật.
“Tài sản số là một nguồn lực lớn, nhưng để đưa vào phục vụ mục tiêu phát triển, chúng ta cần giải quyết đồng thời rất nhiều vấn đề. Thách thức lớn nhất là làm sao đồng bộ giữa các vấn đề nhân lực, công nghệ, khung pháp lý, tuân thủ”, ông Trung nhấn mạnh.
Trả lời