(KTSG) – Tính tới thời điểm này, mục tiêu năm 2025 tăng trưởng tín dụng trên 16% chắc chắn có thể đạt được. Dù vậy, bức tranh không chỉ toàn gam màu tươi sáng. Giải nghĩa sự lệch pha QUẢNG CÁO Số liệu chính thức từ Ngân hàng Nhà nước…
(KTSG) – Tính tới thời điểm này, mục tiêu năm 2025 tăng trưởng tín dụng trên 16% chắc chắn có thể đạt được. Dù vậy, bức tranh không chỉ toàn gam màu tươi sáng.
Giải nghĩa sự lệch pha
Số liệu chính thức từ Ngân hàng Nhà nước (NHNN) cho thấy, tính tới hết ngày 29-9-2025, tăng trưởng tín dụng của toàn nền kinh tế đạt 13,37%, dự báo hết năm 2025 có thể đạt 19-20%. Mức tăng tín dụng này được đánh giá là phù hợp với mục tiêu tăng trưởng GDP năm nay là 8%. Cũng theo NHNN, nhiều dấu hiệu tích cực đã được ghi nhận như vốn cho khu vực sản xuất – kinh doanh chiếm 78% tổng dư nợ toàn nền kinh tế, vốn đưa vào các doanh nghiệp ứng dụng công nghệ cao, công nghiệp hỗ trợ tăng cao hơn so với mức trung bình, lần lượt là 25% và 23,14%… Mục tiêu tăng trưởng tín dụng năm 2025 chắc chắn có thể đạt được, đã có điều hướng dòng tiền vào các lĩnh vực ưu tiên nhưng chúng ta vẫn không thể bỏ qua một vài dấu hiệu cần suy ngẫm.
Đầu tiên là vấn đề tăng trưởng huy động tiền gửi. Số liệu cập nhật tới tháng 7-2025 của NHNN cho thấy, tiền gửi của dân cư trong hệ thống ngân hàng thương mại (NHTM) tăng gần 9,7% so với đầu năm 2025. Con số cập nhật tới hết tháng 9-2025 của Công ty Chứng khoán Rồng Việt, dựa trên thông tin từ các NHTM niêm yết, là khoảng 11,4%, thấp hơn so với mức tăng trưởng tín dụng 14,5%, theo báo cáo của tổ chức này. Theo TS. Châu Đình Linh, trường Đại học Ngân hàng TPHCM, đây là tín hiệu dòng vốn tiết kiệm đang dịch chuyển sang những kênh tài sản có hiệu suất sinh lời cao hơn.
Bên cạnh đó, sự “hụt hơi” của tăng trưởng huy động trước tăng trưởng tín dụng gây áp lực lên thanh khoản, buộc các ngân hàng phải lựa chọn tăng lãi suất hoặc đưa ra các chương trình khuyến mại tương ứng lãi suất. Đây là điều đang diễn ra trong tháng 11-2025. Mức lãi suất huy động tăng có thể gây tác động nhất định tới lãi suất cho vay, vấn đề rất cần lưu tâm khi chỉ tiêu tăng trưởng GDP năm 2026 là từ 10% trở lên, đòi hỏi mức tăng trưởng tín dụng còn cao hơn năm 2025.
Sắp tới, các nhà quản lý phải sắp xếp các mục tiêu theo thứ tự ưu tiên. Chính sách điều hành cần linh hoạt trong tăng trưởng tín dụng và trong việc duy trì mặt bằng lãi suất ổn định, khuyến khích các ngân hàng thương mại ổn định lãi suất thông qua tiết giảm các chi phí khác. Quan trọng nhất, chính sách phải nhất quán, không thể đảo ngược, đảm bảo cả guồng máy vận hành thông suốt theo đúng định hướng đề ra.
Thứ hai, theo thông tin từ NHNN, tính tới cuối tháng 8-2025, dư nợ tín dụng bất động sản tăng khoảng 19% so với cuối năm 2024, mức tăng cao hơn tăng trưởng tín dụng của toàn nền kinh tế. Bên cạnh đó, theo VIS Rating, tỷ lệ đòn bẩy toàn ngành chứng khoán gấp 2,7 lần trong chín tháng đầu năm 2025, do các công ty tăng vay ngắn hạn để hỗ trợ cho vay ký quỹ và đầu tư cổ phiếu. Dù các số liệu nói trên đều đi kèm những nhận định tích cực, chẳng hạn, tốc độ tăng trưởng tín dụng trong lĩnh vực bất động sản phù hợp với diễn biến thị trường, vẫn có những tiếng nói thận trọng.
TS. Châu Đình Linh nhận định, những con số nêu trên thể hiện dấu hiệu dòng vốn tín dụng dịch chuyển sang các ngành có mức độ rủi ro cao hơn. Nếu xu hướng này tiếp diễn, sẽ xuất hiện nguy cơ bong bóng tài sản. Chất lượng tăng trưởng tín dụng gắn với khu vực sản xuất thật có ý nghĩa quan trọng là vì vậy.
“Tuy nhiên, đây chỉ có thể coi là một cảnh báo vàng. Bởi lẽ, hệ thống NHTM của Việt Nam đã được tái cơ cấu. Việc quản trị rủi ro của các NHTM có khẩu vị cho vay bất động sản hay chứng khoán đã tiệm cận với thông lệ quốc tế. Cuối cùng, các NHTM của Việt Nam đang áp dụng chuẩn mực Basel 2, tiến tới Basel 3. Dù vậy, chúng ta vẫn cần có những cảnh báo sớm, nhận diện các tín hiệu rủi ro và đưa ra các kịch bản ứng phó kịp thời, phù hợp”, vị chuyên gia tài chính – ngân hàng này khuyến nghị.
Để tăng trưởng tín dụng bền vững
Một vấn đề cần quan tâm hơn, theo TS. Châu Đình Linh, là cảnh báo mới đây của Fitch Ratings, được Bloomberg dẫn lại. Theo đó, tốc độ tăng trưởng tín dụng nhanh của các NHTM đang làm gia tăng rủi ro, đặc biệt khi Việt Nam dự kiến bãi bỏ cơ chế cấp hạn mức tín dụng.
Tính tới cuối năm 2024, dư nợ tín dụng/GDP của nền kinh tế Việt Nam đã đạt 134%. Theo dự báo của chuyên gia Fitch tại một diễn đàn hồi nửa đầu tháng 11-2025, tính tới cuối năm 2025, con số này có thể lên tới 145%.
“So sánh với các nước trình độ phát triển tương đương Việt Nam trong khu vực ASEAN, con số này cao hơn nhiều lần so với Indonesia (dư nợ tín dụng/GDP năm 2023 khoảng 36%), và nhỉnh hơn Malaysia (dư nợ tín dụng/GDP năm 2023 gần 120%). Sự phụ thuộc lớn vào nguồn vốn ngân hàng sẽ tạo nên nguy cơ rủi ro trong trung và dài hạn, vậy nên, phải thiết kế các van cảnh báo, để tùy vào tình huống cụ thể có sự xả van hợp lý, đảm bảo an toàn cho hệ thống ngân hàng nhưng không gây sốc cho nền kinh tế”, TS. Châu Đình Linh phân tích.
Từng bước giảm thiểu sự phụ thuộc vốn cho nền kinh tế vào NHTM là bài toán phải có lời giải. Theo TS. Châu Đình Linh, thứ nhất, thị trường vốn phải phát triển cân bằng với thị trường tín dụng để gánh vác nhu cầu vốn trung và dài hạn cho nền kinh tế. Với thị trường chứng khoán, cổ phiếu sơ cấp sinh ra dòng vốn thật. Thị trường thứ cấp sôi động, thanh khoản cao sẽ thúc đẩy và hỗ trợ phát hành bổ sung vốn cho doanh nghiệp một cách dễ dàng. Song song với đó, cần tái cơ cấu lại thị trường trái phiếu doanh nghiệp, đưa thị trường này hoạt động ổn định, đúng hướng.
Đối với hệ thống NHTM, cần gia tăng tính ổn định bằng cách áp dụng hiệu quả Thông tư 14 về quy định tỷ lệ an toàn vốn cũng như các chuẩn mực của Basel 2, hướng tới Basel 3; tích cực chuẩn bị cho việc tăng vốn NHTM, đặc biệt là ngân hàng nhỏ và trung bình.
Cuối cùng, tăng trưởng tín dụng đạt được đồng thời số lượng và chất lượng nhưng phải có đánh giá đầy đủ về áp lực nợ xấu.
Trở lại câu chuyện điều hành chính sách tiền tệ hóa giải được những vướng mắc, hỗ trợ cho tăng trưởng GDP cao và bền vững, theo ông Châu Đình Linh, thời gian sắp tới, các nhà quản lý phải sắp xếp các mục tiêu theo thứ tự ưu tiên. Chính sách điều hành cần linh hoạt trong tăng trưởng tín dụng và trong việc duy trì mặt bằng lãi suất ổn định, khuyến khích các ngân hàng thương mại ổn định lãi suất thông qua tiết giảm các chi phí khác. Quan trọng nhất, chính sách phải nhất quán, không thể đảo ngược, đảm bảo cả guồng máy vận hành thông suốt theo đúng định hướng đề ra.