(Chinhphu.vn) – Nhật Bản có nhu cầu nhập khẩu nhiều mặt hàng thế mạnh của Việt Nam và có tiềm năng để trở thành nguồn cung ứng chính cho quốc gia này. Thuỷ sản là một trong những mặt hàng Việt Nam xuất khẩu mạnh sang Nhật Bản. Ảnh: Báo…
Thông tin từ Vụ Thị trường châu Á-châu Phi (Bộ Công Thương), Nhật Bản hiện là đối tác thương mại lớn thứ 4 của Việt Nam (sau Trung Quốc, Hoa Kỳ và Hàn Quốc). Trong đó, Nhật Bản là thị trường xuất khẩu lớn thứ 3 (sau Hoa Kỳ, Trung Quốc) đồng thời cũng là thị trường nhập khẩu lớn thứ 3 (chỉ sau Trung Quốc và Hàn Quốc) của Việt Nam.
Thống kê cho thấy kim ngạch thương mại song phương giữa hai nước tăng đều qua các năm. Tổng kim ngạch thương mại hai chiều năm 2020 đạt 40 tỷ USD; năm 2021 đạt 42,7 tỷ USD; năm 2022 đạt 47,6 tỷ USD; 11 tháng năm 2023 đạt hơn 41 tỷ USD.
Trong 11 tháng vừa qua, kim ngạch xuất khẩu hàng hóa từ Việt Nam sang Nhật Bản đạt 21,3 tỷ USD; kim ngạch nhập khẩu hàng hóa từ Nhật Bản vào Việt Nam đạt 19,7 tỷ USD.
Cơ cấu mặt hàng xuất nhập khẩu của hai nước mang tính bổ sung rõ nét, không có sự cạnh tranh trực tiếp. Việt Nam chủ yếu sản xuất và xuất khẩu sang Nhật Bản các loại thủy sản, dầu thô, dệt may, dây điện và dây cáp điện, gỗ và sản phẩm gỗ, máy vi tính và linh kiện, than đá, giày dép các loại…
Việt Nam nhập khẩu từ Nhật Bản các mặt hàng phục vụ sản xuất công nghiệp gồm máy móc, thiết bị, dụng cụ và phụ tùng, sản phẩm điện tử và linh kiện, sắt thép các loại, vải các loại, linh kiện ô tô, chất dẻo nguyên liệu, hóa chất, nguyên phụ liệu dệt, may, da, giày, kim loại…
Có thể nhận thấy, nhiều mặt hàng mà Nhật Bản có nhu cầu nhập khẩu chính là những mặt hàng Việt Nam thế mạnh và tiềm năng để trở thành nguồn cung ứng chính cho Nhật Bản.
Nhật Bản là thị trường nhập khẩu lớn các mặt hàng phương tiện vận tải và phụ tùng, máy móc thiết bị dụng cụ phụ tùng khác, gỗ và sản phẩm gỗ, hàng thủy sản, máy vi tính và sản phẩm điện tử và linh kiện… mà Việt Nam có thế mạnh. Ở chiều ngược lại, Nhật Bản xuất khẩu chủ yếu máy móc, phụ tùng, thiết bị… sang Việt Nam. Hai nước đã dành cho nhau thuế suất tối huệ quốc từ năm 1999.
Việt Nam và Nhật Bản thiết lập quan hệ ngoại giao chính thức vào ngày 21/9/1973. Kể từ đó, quan hệ hữu nghị và hợp tác giữa hai nước không ngừng phát triển trên nhiều lĩnh vực.
Nhật Bản hiện là một trong những đối tác kinh tế quan trọng hàng đầu của Việt Nam và là nước G7 (Nhóm Các nước Công nghiệp Hàng đầu Thế giới) đầu tiên công nhận quy chế kinh tế thị trường của Việt Nam (tháng 10/2011). Do đó, hai nước có rất nhiều cơ hội tiếp tục đẩy mạnh hợp tác thương mại, đầu tư, nhất là trong tình hình thế giới có nhiều biến động phức tạp, khó lường.
Đặc biệt, Vụ Thị trường châu Á-châu Phi cũng cho biết, Nhật Bản hiện đang là đối tác đã ký kết nhiều Hiệp định Thương mại Tự do (FTA) song phương và đa phương nhất với Việt Nam.
Cụ thể: Hiệp định Đối tác Kinh tế Toàn diện ASEAN-Nhật Bản (AJCEP), Hiệp định Đối tác Kinh tế Việt Nam-Nhật Bản (VJEPA), Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ Xuyên Thái Bình Dương (CPTPP), Hiệp định Đối tác Kinh tế Toàn diện Khu vực (RCEP). Những FTA này đã và đang tạo ra khuôn khổ hợp tác vô cùng quan trọng, góp phần thúc đẩy quan hệ thương mại, đầu tư, kinh doanh giữa hai nước theo nguyên tắc đôi bên cùng có lợi.
Đáng lưu ý Việt Nam và Nhật Bản có nhiều cơ hội hợp tác trong lĩnh vực thương mại do hai nền kinh tế có sự bổ sung lẫn nhau. Nhật Bản là quốc gia có nền kinh tế phát triển ở trình độ cao, sở hữu công nghệ tiên tiến hàng đầu thế giới và là một trong những nước đi đầu về ứng dụng khoa học, công nghệ và phát triển kinh tế số, xã hội số.
Trong khi đó, Việt Nam sở hữu nền kinh tế có độ mở cao, đang duy trì tốc độ phát triển nhanh, nguồn nhân lực trẻ dồi dào, nhu cầu nâng cao năng lực cạnh tranh và hiệu quả sản xuất công nghiệp. Hai nền kinh tế có tính bổ sung cao và có nhiều tiềm năng hợp tác trong lĩnh vực đổi mới công nghệ, chuyển đổi số và đa dạng chuỗi cung ứng.
Nói về việc xuất khẩu sang thị trường Nhật Bản, hầu hết các doanh nghiệp, hiệp hội đều nhìn nhận, Nhật Bản là thị trường có yêu cầu cao về chất lượng đối với hàng hóa xuất khẩu.
Ông Đặng Phúc Nguyên, Tổng Thư ký Hiệp hội Rau quả Việt Nam, cho biết thị trường Nhật Bản chiếm khoảng 5% kim ngạch xuất khẩu hoa quả của Việt Nam, với kim ngạch khoảng 150 triệu USD. Tuy nhiên, con số này vẫn đang thấp so với dư địa.
Nguyên nhân, theo Hiệp hội Rau quả Việt Nam, bởi tiêu chuẩn nhập khẩu hàng nông sản của Nhật Bản rất cao mà hàng hóa Việt Nam chưa đáp ứng được hết. Sản phẩm nông, lâm, thủy sản phải đảm bảo các tiêu chuẩn vệ sinh an toàn thực phẩm, kiểm dịch động thực vật, và đòi hỏi phải được sản xuất, nuôi trồng theo các tiêu chuẩn GAP, HACCP hay JAS – Tiêu chuẩn nông nghiệp Nhật.
“Tín hiệu đáng mừng là doanh nghiệp xuất khẩu rau quả của Việt Nam đã và đang làm quen, thích nghi tốt với thị trường Nhật Bản sau khi một số loại hoa quả Việt Nam được thị trường Nhật Bản đón nhận như: thanh long, xoài, sầu riêng, dừa, vải thiều, nhãn, chuối. Trong đó, thanh long, chuối được người Nhật Bản ưu chuộng”, ông Đặng Phúc Nguyên cho biết.
Tham tán Thương mại Việt Nam tại Nhật Bản Tạ Đức Minh cho biết: Ổn định chất lượng sản phẩm là điều mà doanh nghiệp Việt Nam hiện vẫn còn rất yếu do quy mô sản xuất, chế biến còn nhỏ lẻ.
Đơn cử lô hàng đầu tiên xuất khẩu số lượng đặt hàng ít nên doanh nghiệp đảm bảo chất lượng đồng đều nhưng đến các lô sau, khi đối tác tăng số lượng hoặc khi đã qua chính vụ, doanh nghiệp phải đi thu mua từ nhiều nông hộ khác nhau, quy trình chế biến khác nhau dẫn đến chất lượng sản phẩm không đồng đều như lô đầu tiên.
Hay như việc hoa quả từ kho lạnh của nhà sản xuất, chuyển sang ôtô lạnh ra sân bay, rồi từ sân bay vào cảng đến…, tất cả đều đòi hỏi đồng bộ công nghệ bảo quản, nếu doanh nghiệp không làm tốt, hàng hóa dễ hư hỏng dẫn đến đối tác từ chối nhận hàng.
Một điểm trừ nữa mà hàng nông sản của Việt Nam hay gặp phải là tình trạng lượng chất bảo vệ thực vật quá yêu cầu, khi thông quan hàng hóa cũng sẽ bị kiểm tra với tần suất cao hơn dẫn tới chi phí lưu kho, kiểm dịch bị đội lên rất nhiều… Tất cả những việc này khiến sản phẩm của Việt Nam khó cạnh tranh…
Ông Tạ Đức Minh cũng lưu ý, đặc điểm của nền kinh tế Nhật Bản có mức lạm phát thấp, hàng năm chỉ khoảng 2%, thậm chí thường rơi vào giảm phát nên giá cả không đổi. Bởi vậy, doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam cần lưu ý không tăng giá quá mạnh, tránh làm mất khả năng cạnh tranh của hàng Việt.
Nhận định về trao đổi thương mại giữa Việt Nam và Nhật Bản trong thời gian tới, các chuyên gia thương mại dự báo việc hợp tác sẽ được hỗ trợ nhiều hơn nữa khi doanh nghiệp hai bên khai thác những lợi thế, ưu đãi về t huế từ các FTA như CPTPP, RCEP… Việt Nam đã và đang là điểm đến hấp dẫn cho vốn đầu tư của doanh nghiệp Nhật Bản với lợi thế quy mô thị trường và tiềm năng tăng trưởng, tình hình chính trị-xã hội ổn định, trình độ nhân lực ngày càng cao.
Báo cáo khảo sát năm 2022 của Tổ chức Xúc tiến Thương mại Nhật Bản (JETRO) cho thấy 60% doanh nghiệp Nhật Bản tại Việt Nam có kế hoạch mở rộng hoạt động kinh doanh trong vòng 2 năm tới. Có thể thấy, việc nhiều doanh nghiệp Nhật Bản có kế hoạch mở mới, mở thêm nhà máy sản xuất tại Việt Nam sẽ là động lực quan trọng thúc đẩy trao đổi thương mại giữa hai bên mạnh mẽ hơn trong thời gian tới.
Nhật Bản là nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) lớn thứ 3 ở Việt Nam (sau Hàn Quốc và Singapore) với với 5.227 dự án FDI còn hiệu lực, tổng vốn đầu tư đăng ký hơn 71,41 tỷ USD (tính lũy kế đến 20/10/2023).
Ở chiều ngược lại, Việt Nam có 106 dự án đầu tư sang Nhật Bản với tổng vốn đầu tư đăng ký đạt khoảng 19,5 triệu USD.
Ngoài ra, Nhật Bản cũng là nước cung cấp viện trợ phát triển chính thức (ODA) lớn nhất cho Việt Nam, chiếm khoảng 30% tổng số vốn của nhà tài trợ nước ngoài dành cho Việt Nam, với 29,3 tỷ USD. Trong đó, viện trợ không hoàn lại là 1,8 tỷ USD.
Nguồn vốn ODA của Nhật Bản góp phần quan trọng trong việc phát triển dự án cơ sở hạ tầng trọng điểm, tạo động lực lan tỏa tích cực, thúc đẩy quá trình phát triển kinh tế-xã hội bền vững; hỗ trợ chuyển giao công nghệ tiên tiến, đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao cho Việt Nam.
Phan Trang